Vàng son một thời: Nhà máy lương công nhân tương đương lương giám đốc

Vàng son một thời: Nhà máy lương công nhân tương đương lương giám đốc

Sau gần 120 năm tồn tại, năm 2003, Nhà máy Dệt Nam Định được xác định là cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng nên buộc phải di dời ra khỏi thành phố. Nhà máy đang trong giai đoạn chuyển đổi, để phục vụ cho việc xây dựng một khu đô thị dệt may “cốt lõi” của thành phố trong tương lai.
Không khỏi không nuối tiếc khi nhớ về quá khứ vàng son của nhà máy từng một thời lừng lẫy cả xứ Đông Dương… Nhất là với nhiều thế hệ người dân Nam Định, đặc biệt là những gia đình có truyền thống gắn bó, từng thức ngủ theo tiếng còi nhà máy, những người nhờ đồng lương cha mẹ làm công nhân nhà máy mà trưởng thành…
1
Công nhân sống khỏe vì “đặc sản” quần lụa đen
Nhà máy Dệt lụa Nam Định tiền thân là một cơ sở nghiên cứu về tơ lụa, do Toàn quyền Đông Dương De Lanessan dùng ngân sách Đông Dương lập ra. Đến năm 1898, Toàn quyền Paul Doumer đồng ý cho lập một nhà máy tơ chạy bằng hơi nước có sáu lò đặt ngay tại thành phố.
Năm 1900, một số tư bản Pháp trong Công ty bông, vải, sợi Bắc Kỳ hùn vốn với một tư sản người Hoa cùng kinh doanh. Cùng năm này, xưởng sợi A và xưởng cơ khí được xây dựng.
Năm 1924, số công nhân có 6.000 người. Năm 1929, Nhà máy Tơ Nam Định đã có 135 máy dệt. Đến cuối năm 1939, nhà máy đã có 3 nhà sợi, 3 nhà dệt, một xưởng nhuộm, một xưởng chăn, một xưởng cơ khí, một xưởng động lực..
Sau năm 1954, Dệt lụa Nam Định được Nhà nước tiếp quản từ tay tư bản Pháp. Do điều kiện chiến tranh và sự phá hoại của tư bản Pháp nên máy móc còn lại ít, đa phần bị hỏng. Sau thời gian tiếp quản, xí nghiệp phục hồi lại một số máy móc và tiếp tục hoạt động.

Nhà máy Dệt Nam Định trong bưu ảnh thời thuộc địa.

Nhà máy Dệt Nam Định trong bưu ảnh thời thuộc địa.


Được sự trợ giúp của Nhà nước và nguồn hàng viện trợ của Trung Quốc, xí nghiệp đã nâng cấp nhà máy và được giao nhiệm vụ sản xuất lụa đen phục vụ cho thị trường miền Bắc. Thời đó, hầu hết phụ nữ miền Bắc đều mặc quần đen. Lụa đen là một gánh nặng mà Nhà nước phải lo cho 1/2 dân số, gần 10 triệu người. Mỗi người phụ nữ được quyền mua 2m lụa đen trong số 4 mét vải/năm trên tem phiếu.
Cũng vì vậy mà sản phẩm của xí nghiệp làm ra bao nhiêu đều được Nhà nước tiêu thụ hết, sản phẩm dù tốt hay xấu đều được chấp nhận, vì cung vẫn thấp hơn cầu. Ngoài số lượng lụa sản xuất trong nước, Nhà nước còn xin viện trợ để nhập thêm lụa đen về mới tạm đủ. Do vậy, trong suốt giai đoạn này, nhà máy hoạt động tương đối bình thường, không có những khó khăn, ách tắc lớn.
Thời kỳ khủng hoảng, thợ dệt đi trồng rau, nuôi lợn
Cho tới năm 1977, cùng với sự cấm vận của Mỹ, Trung Quốc và một số nước khác cắt viện trợ, tình hình nhà máy bắt đầu khó khăn. Nhà nước không còn cung cấp đủ sợi, thuốc nhuộm, phụ tùng thay thế. Không có tơ, nhà máy phải đổi quy định công nghệ, dệt bằng sợi petec.
Đặc điểm của công nghệ này là năng suất thấp, vải sợi cứng và xấu, nhưng vì không còn thứ nguyên vật liệu nào khác nữa nên vẫn phải sử dụng. Tuy nhiên, nhà máy vẫn không đủ việc cho công nhân, phải cho 30% công nhân nghỉ việc, hưởng 70% lương.
Số còn lại cũng chỉ sản xuất cầm chừng và cũng phải thay phiên nhau nghỉ việc. Lương ít, phúc lợi xã hội hầu như không có gì. Ngân quỹ trống rỗng. Đời sống công nhân khó khăn.
Nguyên Trưởng phòng Đời sống của nhà máy thời điểm này kể lại: “Theo quy định của nhà nước, tiêu chuẩn cung cấp hàng tháng vốn đã rất thấp, đến lúc này thì ngay cả mức thấp đó cũng không đảm bảo được nữa. Gạo bán cho công nhân viên chức được quy định là 16kg với người làm 3 ca, 13kg với người làm hai tầm.
Nhưng đến giai đoạn này thì phải độn thêm ngô và bột mỳ. Tiêu chuẩn 13kg chỉ còn 9kg gạo, còn 4kg là độn. Về thịt, quy định của Nhà nước là mỗi công nhân làm nặng nhọc được 0,5kg/tháng, những người không trực tiếp sản xuất thì 0,3kg/tháng.

Nhà máy Dệt Nam Định nhiều lần được Bác Hồ đến thăm.



Nhưng đến giai đoạn này, nhiều khi thịt cũng không có, mỗi suất ăn cho công nhân phải được tính không phải là cân, là lạng, mà là hoa, tức là 10gram”. Làn sóng chán nản trong xí nghiệp đã xuất hiện.
Đứng trước những khó khăn đó, Nhà máy phải tìm một số biện pháp tình huống: Cho một số công nhân nghỉ việc vào xin một quả đồi ở nông trường Đồng Giao, cách đó gần 50km, để nuôi bò; kết hợp với một số hợp tác xã để tổ chức làm một số ngành nghề, tuy trái với nghề thợ dệt nhưng dù sao cũng còn có công ăn việc làm; kết nghĩa với các hợp tác xã để lấy đất trồng rau và nuôi lợn, đào đất đóng gạch để bán; xin địa phương cho mượn một cái ao để vừa nuôi cá, vừa thả bèo để lấy bèo nuôi lợn…
“Liều thuốc” ngoại tệ nhập nguyên liệu và thiết bị
Chính lúc này, Phó Giám đốc nhà máy là kỹ sư Trần Minh Ngọc được cử làm Giám đốc. Là người từng làm việc lâu trong cương vị Phó Giám đốc, ông Ngọc rất hiểu tình hình.

Ông nhẩm tính: Nếu có một số ngoại tệ làm đà, sẽ nhập được nguyên liệu và thiết bị để tổ chức sản xuất. Những sản phẩm đó có thể tiêu thụ trên rất nhiều kênh, không chỉ thu về tiền đồng Việt Nam mà còn có thể thu về ngoại tệ.
Nếu tự cân đối được ngoại tệ để tổ chức sản xuất, không chỉ duy trì ở mức hiện nay, mà còn có thể mở rộng hơn, nâng cao sản lượng, tạo công ăn việc làm cho công nhân, nâng mức thu nhập, cải thiện đời sống…
Bài toán đó xét về logic là suôn sẻ. Nhưng theo cơ chế lúc đó thì lại không khả thi. Về nguyên tắc, cơ quan được thay mặt Nhà nước để quản lý ngoại tệ là Ngân hàng Ngoại thương.

Ngân hàng này chỉ được phép cung cấp ngoại tệ cho những đơn vị có chức năng kinh doanh gắn với ngoại tệ. Đó là Bộ Ngoại thương và các công ty xuất nhập khẩu. Tất cả việc nhập khẩu để sản xuất và giao nộp hàng để xuất khẩu đều phải qua các cơ quan ngoại thương.
Giám đốc Trần Minh Ngọc nghĩ ra một con đường mà ông gọi là “lách cơ chế chứ không chống cơ chế”: Xí nghiệp không trực tiếp đứng ra vay ngoại tệ nhưng thỏa thuận ngầm với ngân hàng Vietcombank và các công ty ngoại thương rằng: Xí nghiệp là người chịu trách nhiệm trực tiếp với Vietcombank về số ngoại tệ mà các công ty ngoại thương định vay.
Hầu hết các công ty xuất nhập khẩu, lúc đó gọi là các Unimex, đều đồng tình. Vì nếu không bắt tay với người sản xuất thì họ không thể nào kinh doanh xuất khẩu được. Ngân hàng cũng gật đầu.
Sau đó, cả ba bên thống nhất giải pháp: Về danh nghĩa, các Unimex đứng ra vay tiền của Vietcombank, có giải trình phương án thu mua hàng xuất khẩu. Cơ sở có khả năng thực tế đảm bảo sản xuất hàng xuất khẩu chính là Nhà máy Dệt lụa Nam Định. Thị trường xuất khẩu thì các Unimex đã có sẵn. Cuộc liên kết tay ba bắt đầu từ đó.
Lãnh đạo Nhà máy còn tính đến giải pháp rộng hơn và thiết thực hơn: Khai thác thị trường trong nước. Mặt hàng lụa xuất khẩu đòi hỏi chất lượng cao. Muốn tạo được thói quen của người tiêu thụ ở nước ngoài, cần phải có thời gian. Trong khi đó, trên thị trường nội địa, lụa là mặt hàng rất quý hiếm, có thể nói là “đắt như tôm tươi”.

Nếu đem lụa đó trao đổi với các địa phương, với nông dân, với các hợp tác xã, có thể thu được những nông sản có giá trị xuất khẩu. Nhà máy đem vải lụa đổi lấy lạc, vừng, đỗ tương và đỗ xanh.
Còn nông dân, thay vì giao nông sản cho các Unimex, nay giao cho nhà máy, nhà máy lại giao những thứ nông sản đó để cho các Unimex xuất khẩu thu ngoại tệ. Như vậy, một hình thức liên kết tay bốn đã hình thành.
Giữa năm 1980, cuộc thử nghiệm bắt đầu. Vietcombank xuất 30.000 USD cho Nhà máy Dệt lụa Nam Định vay theo thỏa thuận ngầm, còn về hình thức là giao cho Unimex của Hà Nam Ninh nhận. Unimex nhập một số tơ của Nhật về giao cho nhà máy để tổ chức sản xuất.
Liều thuốc ngoại tệ này hiệu nghiệm ngay: Nhà máy có đủ việc làm cho công nhân, có sản phẩm giao nộp cho ngoại thương, ngoài ra còn thu được một số lãi bằng ngoại tệ để dự trữ.
Trên cơ sở thành công bước đầu, nhà máy lại tiếp tục phương án liên doanh liên kết: Vay thêm ngoại tệ, ngoài việc nhập khẩu tơ và sợi còn nhập thêm thuốc nhuộm để đa dạng hóa mặt hàng. Tình hình năm 1980 nhờ đó đã khả quan hơn.
“Đa zi năng” vừa sản xuất, vừa gia công
Không thỏa mãn với những thành tích khiêm tốn mới đạt được, ban lãnh đạo nhà máy vẫn không ngừng suy tư tìm cách đột phá tiếp. Còn một trở ngại: Thiết bị quá cũ kỹ, không thể nào làm ra những mặt hàng có chất lượng cao để có thể chinh phục được thị trường thế giới. Nếu giải quyết được khâu này thì sẽ mở ra được một “chân trời” rộng hơn, xa hơn.

Nhưng việc đó không thể chỉ giải quyết bằng đầu óc và nhiệt tình, mà phải bằng kỹ thuật. Cho đến lúc này, thế giới đã không còn bán những thứ lụa thông thường như thời thực dân Pháp sản xuất, mà đã có những loại lụa phẳng, mịn, bóng, không nhàu… Muốn làm được những mặt hàng như thế, phải có một loại máy mà trong kỹ thuật gọi là máy văng sấy định hình.
Sau khi lụa dệt xong, phải dùng máy này để xử lý lụa, từ đó sẽ tạo được chất lượng lụa xấp xỉ chất lượng lụa trên thế giới. Mỗi chiếc máy đó khoảng hơn 100.000 đô la. Vào lúc đó, tất cả các nhà máy dệt trong nước từ Bắc chí Nam chưa có nhà máy nào có nổi.
Lãnh đạo Nhà máy quyết định đặt vấn đề vay ngoại tệ của Ngân hàng Ngoại thương để nhập chiếc máy này, với niềm tin sắt đá rằng: Sẽ không chỉ hoàn lại số tiền nhập máy, mà còn tạo thêm ra rất nhiều ngoại tệ.
Quý I năm 1981, chiếc máy đã được đưa về và được vận hành ngay. Tất cả cán bộ, công nhân, viên chức đều hân hoan trước loại sản phẩm mới, mà từ ngày thành lập đến nay, nhà máy chưa từng sản xuất ra. Thị trường được mở rộng, không chỉ Unimex của thành phố Nam Định, mà rất nhiều Unimex của các tỉnh khác cũng muốn hàng của nhà máy, vì nó có sức thu hút ngoại tệ rất mạnh.
1
Người xưa thường nói “phúc bất trùng lai”, nhưng lần này thì ở đây “phúc” đã “trùng lai”: Chiếc máy có công suất quá lớn, không chỉ phục vụ cho sản lượng của một Nhà máy Dệt lụa Nam Định mà còn có thể làm gia công cho các xí nghiệp khác trên cả nước chưa có máy.
Quả nhiên, từ giữa năm 1981, tiếng lành đồn xa, tất cả các xí nghiệp dệt lụa trên các tỉnh phía Bắc đều sớm “tỉnh ngộ” rằng: Mặt hàng lụa của họ làm rất công phu, nhưng vì không có máy văng sấy hiện đại nên chất lượng vẫn chỉ là “cổ truyền”. Do đó, họ đã kìn kìn chở sản phẩm của mình đến để thuê Nhà máy Dệt lụa Nam Định hoàn thiện khâu cuối cùng này.
Như thế, chiếc máy tưởng là thừa công suất ấy nay đã phải chạy hết công suất, phải bố trí thêm nhiều công nhân đứng máy, chạy hết ba ca mà không hết việc. Công nhân có thêm việc làm, xí nghiệp có thêm thu nhập.
Cũng từ năm 1981, với một hệ thống thiết bị và cung ứng nguyên vật liệu đã đổi mới, Nhà máy Dệt lụa Nam Định có khả năng sản xuất ra những mặt hàng đủ tiêu chuẩn xuất khẩu cho Liên Xô, Đông Âu, Nhật.
Ngoài phần giao cho các Unimex, xí nghiệp còn cung cấp vải cho nhiều địa chỉ khác như Công ty Cung ứng tàu biển Quảng Ninh, để công ty này bán vải cho thủy thủ các tàu đến “ăn” than, thu về ngoại tệ mạnh; liên hệ với Công ty Gang thép Thái Nguyên để đổi vải lấy thép, rồi mang thép về Hải Hậu đổi lấy nông sản, giao cho Unimex xuất khẩu nông sản lấy ngoại tệ. Đến đây, sự liên kết đã mở rộng hơn trước nhiều, không chỉ là liên kết tay ba, mà hến tới liên kết tay bốn, tay năm…

Với những thành tựu như trên, nhà máy càng có thêm tín nhiệm với cấp trên và bắt đầu được chú ý đầu tư: Được nhập thêm những máy móc hiện đại, đắt và hiếm nhưng có hiệu quả kinh tế cao. Trong đó, có chiếc máy nhuộm cao áp của hãng Fuji, trị giá hơn 350.000 USD (đây là chiếc máy duy nhất ở miền Bắc vào thời kỳ này).
Có chiếc máy này, nhà máy có thể dệt được sợi petec, loại sợi mà ít nhà máy dám dệt, vì nếu không có máy nhuộm cao áp thì vải sẽ rất cứng. Tiếp đó, nhà máy còn mua thêm máy nhuộm con sợi, nhập thêm 60 máy dệt thoi kẹp hiện đại của Liên Xô.
Hàng tận dụng phế liệu vẫn “đắt như tôm tươi”
Đến giai đoạn này, nhà máy không chỉ mở rộng sản xuất theo hướng tăng sản lượng và chất lượng của các sản phẩm chính, mà còn tính đến việc tận dụng tất cả những phụ liệu và phế liệu để nâng cao hiệu quả kinh tế.

Tổ sản xuất vải may dù phục vụ không quân thời kháng chiến chống Mỹ.

Tổ sản xuất vải may dù phục vụ không quân thời kháng chiến chống Mỹ.


Sản xuất chính càng phát triển, thì những phụ liệu và phế liệu càng nhiều, càng có thể bố trí được công ăn việc làm cho công nhân, nâng cao thu nhập của nhà máy và cải thiện đời sống của công nhân. Những phế liệu mà trước đây thường bỏ đi, nay được sử dụng để sản xuất một số hàng xuất khẩu và bán trên thị trường nội địa.
Để làm việc đó, nhà máy tổ chức thêm một phân xưởng phụ gọi là phân xưởng tổng hợp, với khoảng từ 3 đến 5 máy dệt và 3 đến 5 chục công nhân viên để sản xuất. Sở dĩ gọi đây là phân xưởng tổng hợp vì tuy là phân xưởng phụ nhưng nó ngày càng phát triển và đa dạng hóa các mặt hàng, tận dụng tất cả những nguồn lực từ lớn đến nhỏ; không bỏ thừa, bỏ phí một cái gì.
Ban đầu, phân xưởng này được lập ra để tận dụng số tơ bị đứt, không thể dùng để sản xuất các chính phẩm. Nhà máy bố trí những con em công nhân và những người yếu sức nối lại những sợi tơ đứt và xe lại để dệt thành lụa và sa tanh.
Sản phẩm làm từ phế liệu như thế tất nhiên không thể đưa ra thị trường thế giới, nhưng đối với thị trường Việt Nam lúc đó thì vải đã là quý hiếm, huống chi là lụa và sa tanh, cho nên vẫn “đắt như tôm tươi”.
Xí nghiệp còn dùng loại “thứ phẩm” này đem về các địa phương đổi lấy lạc, vừng, gạo. Gạo thì cho công nhân ăn. Lạc và vừng thì chuyển giao cho bên ngoại thương xuất khẩu.
Có những thời kỳ, để phục vụ cho việc giao nông sản cho ngoại thương, xí nghiệp còn sử dụng con em công nhân về bóc lạc, chuyển lạc củ sang lạc nhân để đảm bảo giá hàng xuất cao hơn, thu thêm ngoại tệ về.
Tiến tới một bước nữa, ngoài việc dệt lụa, xí nghiệp tổ chức một bộ phận sản xuất quần áo may sẵn cho phụ nữ và trẻ em để bán cho bách hóa và đem về nông thôn đổi nông sản.
Phân xưởng may này cũng là một trong những nơi tạo ra ngoại tệ và tạo điều kiện cải thiện đời sống của công nhân: gạo, thịt, rau, cá… đều từ đây mà ra.
Khi đã tiêu thụ hết các thứ phẩm, nhà máy sử dụng phân xưởng may này để may chăn ga gối đệm chính phẩm xuất khẩu sang Liên Xô và các nước Đông Âu. Sau đó, nhờ đã có quan hệ mua bán với Nhật nên xí nghiệp lại tìm được một khách hàng để may khăn lụa chính phẩm xuất sang Nhật.
Chất lượng khăn đã thỏa mãn khách hàng tới mức họ còn đưa thêm máy móc và thiết bị sang (loại máy hai kim, ba kim), đưa cả chỉ đặc chủng để may loại khăn này. Trong những trường hợp như thế thì phân xưởng phụ lại tạo ra sản phẩm chính cao cấp.
Thời hoàng kim hỗ trợ “ngược” cho Nhà nước
Đến lúc này thì các cơ sở “nông nghiệp hóa” của thời kỳ khủng hoảng và khó khăn đã mang một tính chất khác hẳn. Trước đây, do không có điều kiện để làm công nghiệp nên mới buộc phải đưa công nhân đi chăn bò, nuôi lợn, trồng rau, đóng gạch, nuôi cá….
Bây giờ, việc sản xuất chính của nhà máy phát triển mạnh, đã có đủ chỗ, đủ việc làm cho những công nhân có tay nghề, thì lại nảy sinh ra nhu cầu giải quyết công việc và đời sống cho gia đình công nhân, cho những người ốm yếu, những người về hưu, mất sức.
Không thể thu hút những người đó vào phân xưởng tổng hợp, và ở đây cũng đòi hỏi kỹ thuật cao và có sức khỏe. Nhà máy không những không dẹp bỏ, mà còn tăng cường các cơ sở nông nghiệp:
Đầu tư thêm giống, thiết bị để cải thiện điều kiện lao động và chỗ ăn ở cho những anh em và gia đình lao động ở đây. Chính họ lại tạo ra sản phẩm như thịt lợn, thịt bò, cá tươi, gạo nếp, gạo tẻ, đậu, lạc, rau…, phục vụ trực tiếp cho những công nhân lành nghề của xí nghiệp.
Bữa ăn giữa ca của công nhân được cải thiện rõ rệt. Thức ăn đầy đủ thực phẩm không còn ở mức vài gram như trước đây. Vào ngày Tết, mỗi công nhân được cấp không 2kg thịt, ngoài ra có đường, gạo, gà, vịt, cá…
Như vậy, phân xưởng phụ thì có quần áo, vải, lụa làm tặng phẩm cho công nhân trong những dịp lễ tết, thưởng cho những người làm việc có năng suất cao. Các cơ sở sản xuất nông nghiệp thì cung cấp thức ăn và tạo công ăn việc làm cho gia đình, giúp cho những người công nhân trong sản xuất chính yên tâm hơn.
Những năm 1982 – 1983 là những năm có rất nhiều khách đến tham quan và học tập nhà máy. Sức lan tỏa của những kinh nghiệm tại nhà máy ngày càng lớn lên. Nhà máy Dệt lụa Nam Định từ chỗ là một nhà máy cổ lỗ, ít được ai biết tới, dần dần đã nổi tiếng cả nước.
Có một điều thú vị nữa là nhà máy không đi xin ngoại tệ của Nhà nước, mà còn hỗ trợ ngoại tệ cho Nhà nước: Vì nhà máy đặt tại thành phố Nam Định nên thành phố Nam Định đã được xí nghiệp cho vay một khoản ngoại tệ đáng kể để thành lập Xí nghiệp May Sóng Hồng, nhằm tạo thêm công ăn việc làm cho thành phố.
Điều quan trọng nhất là nhà máy đã làm thay đổi hẳn cuộc sống của công nhân, từ chỗ thiếu thốn từng hạt gạo, nước mắm đến miếng thịt, cái áo, cái quần, nhà máy trở thành một trong những nơi mà người công nhân có thu nhập khá nhất, có đời sống tốt nhất vào lúc.
Lương công nhân tương đương giám đốc
Về gạo ăn, từ 1981, xí nghiệp đã cử người vào miền Nam mua gạo (về nguyên tắc vẫn phải thông qua Công ty Lương thực của thành phố). Ngoài tiêu chuẩn được mua của Nhà nước, nhà máy đã lo cho công nhân hai tháng một lần, mỗi lần một người được mua 20kg gạo. Như vậy, công nhân có thể hoàn toàn yên tâm về gạo ăn.
Về thực phẩm, cũng do liên kết với các địa phương, trao đổi hiện vật và có cơ sở sản xuất nên xí nghiệp đã đảm bảo hầu như tất cả các khoản thịt, cá, rau, đậu, đường bột ngọt… cho bữa ăn của công nhân.
Tổ sản xuất vải may dù phục vụ không quân thời kháng chiến chống Mỹ.

Tổ sản xuất vải may dù phục vụ không quân thời kháng chiến chống Mỹ.

Bữa ăn giữa ca không mất tiền. Ăn sáng là một bát phở hoặc một bát bún. Ốm đau có bồi dưỡng đường, sữa. Ngày Tết, tiêu chuẩn của mỗi công nhân được nhà máy lo cho là 20kg gạo tẻ, 5kg gạo nếp, 2kg đỗ xanh, 2kg thịt, 1 lít nước mắm, 2kg đường, một gói mì chính 100g.
Những ngày lễ trong năm, nhà máy đều có quà cho công nhân. Ngày Quốc tế Thiếu nhi mùng Một tháng Sáu thì tất cả những cháu thiếu nhi con em công nhân đều được một bộ quần áo mới. Ngày 8/3, mỗi nữ công nhân được tặng một chiếc quần lụa. Những ngày Quốc tế Lao động 1/5, Quốc khánh 2/9, mỗi công nhân được 2kg cá, 1kg thịt, 10kg gạo, 2kg đường, một gói mì chính.
Về những mặt hàng công nghệ phẩm khác, nhà máy cũng dùng liên kết để đổi về và dùng làm phần thưởng cho công nhân, như quạt điện, xe đạp, đài…
Cũng nhờ sản xuất phát triển, cải tiến tổ chức quản lý lao động, áp dụng chế độ trả lương theo sản phẩm, nên tiền lương thực tế của công nhân tăng lên đáng kể. Trước đây, lương công nhân làm 3 ca cao nhất được 55 đồng, từ 1982 lên tới 90 đồng, ngang với lương cán bộ lãnh đạo. Không ít công nhân có năng suất cao đạt mức lương tương đương mức của Giám đốc.
Nhà máy còn xây dựng tới 3 nhà trẻ cho con em cán bộ công nhân viên. Số nhà trẻ này được phân bố hợp lý để cho các cháu không phải đi quá xa. Nhà máy tiếp nhận tới 45 cô giữ trẻ, phần lớn cũng là con em công nhân. Như thế vừa giúp thêm cho con em công nhân đến tuổi lao động có việc làm, những cháu nhỏ thì được trông coi chu đáo, bố mẹ yên tâm lao động.
Để đảm bảo sức khỏe cho công nhân, khi ốm đau không phải đi bệnh viện của thành phố, nhà máy xây dựng một bệnh xá với 20 giường bệnh, có những phòng khám đa khoa, có bác sỹ, y sỹ, y tá phục vụ chu đáo. Việc khám, chữa bệnh và ăn ở tại đây hoàn toàn không mất tiền.

Công nhân che mưa cho Nhà máy, “mặc kệ” nhà mình bay nóc
Nguyên quản đốc của Nhà máy kể, những năm 1981 – 1988, đời sống công nhân trong thời kỳ này là khá cao. Ngoài tiền ăn ra, công nhân còn thừa tiền để mua vàng dự trữ.
Cũng vì gắn quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động với lợi ích của nhà máy, nên tinh thần lao động của mọi người khác hẳn trước. Kể từ Giám đốc, quản đốc, tới công nhân, đều hết lòng với công việc của mình. Giám đốc thì tìm mọi cách đi ký kết các hợp đồng liên doanh liên kết, bán được nhiều sản phẩm. Công nhân hăng say lao động, coi việc của xí nghiệp còn hơn cả việc nhà mình.
Nguyên quản đốc Nhà máy kể lại một câu chuyện nhỏ, nhưng lại phản ánh một cách sắc nét mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể: “Có lần tôi và một người phó quản đốc khác đang ở nhà thì bỗng thấy có bão về. Chúng tôi đã vội bỏ nhà để vào cứu nhà máy. Gió to quá tốc hết mái phân xưởng. Máy móc thì không thể bị nước mưa.
Hai chúng tôi đành chịu ướt để căng bạt che mưa cho máy, mỗi người cầm hai góc đầu bạt cho đến khi mưa tạnh. Sau khi cứu máy về đến nhà, thì ôi thôi, nóc nhà mình đã bay đi mất rồi. Tôi chui nào gầm giường ngủ lấy sức để sáng hôm sau còn đến nhà máy sớm…”.

Song Thu – Baophapluat.vn


TOP